Theo trung dược lâm sàng
Bạch chỉ và Kinh giới
Công dụng khác nhau
Bạch chỉ và kinh giới đều là vị thuốc
cay, ôn để giải biểu không phải chỉ có vào khí phận, mà còn chạy vào huyết
phận, đều có tác dụng phát tán phong hàn xử lý huyết, có tác dụng tiêu thũng
- Nhưng bạch chỉ cay, thơm, ôn táo, chủ yếu vào dương
minh kinh. Tán hàn mạnh, và có khả năng thông tỵ khiếu, táo thấp, hoạt
huyết, trừ mủ
- Kinh giới cay, ôn nhưng không táo
chủ trị can kinh khu phong mạnh, vả lại khỏi được bệnh kinh co giật, làm
sáng mát, lợi cho yết hầu.
Chủ trị khác nhau
Bạch chỉ chủ yếu chữa phong hàn ngoại cảm
Kinh giới chữa được cả phong hàn, phong nhiệt cảm mạo
- Bạch chỉ cay ôn, hương thơm, phát tán phong hàn,
thích nghi dùng trong phong hàn ngoại cảm.
- Như
"Cục phương" Xuyên khung trà điểu tán, gồm bạc hà, hương
phụ xuyên khung, kinh giới, phòng phong, bạch chỉ, khương hoạt cam thảo,
trị bệnh phát nhiệt, ghét lạnh, tắc mũi, chảy nước mũi, đầu và mặt đau
nhức các chứng.
- Kinh giới chẳng những trị phong hàn cảm mạo, vì nó
khu được phong, thanh lợi cho đầu và mắt, mà còn chữa được cả phong nhiệt
cảm mạo, như bài Ngân Kiều Tán.
Bạch chỉ trị xích bạch đới hạ (bệnh phụ khoa)
Kinh giới trị sản hậu kinh nguyệt (sau khi đẻ bị kinh co giật)
- Bạch chỉ
cay, tỉnh táo, táo thấp, bài nùng (hết mủ) thích nghi dùng chữa hàn thấp
sinh ra bệnh xích đới hạ.
- Như
"Hiệu chú phụ nhân lương phương" có bài Bạch chỉ tán: Bạch chỉ,
Ô tặc cốt, đoàn thai phất tán nhỏ, trị bệnh hạ nguyên hư nhược, xích bạch
đới hạ hoặc kinh nguyệt ra không hết.
- Kinh giới có công dụng khu phong, giải kinh (co
giật), cổ thể dùng cho người sau khi sinh đẻ, huyễn vựng, miệng ngậm phát
kinh co giật. Như "Tố vấn bệnh có khí nghi bảo mệnh tập" dùng kinh
giới tuệ, đào nhân giã nhỏ. Mỗi lần dùng 9 khắc để chừa bệnh sau khi sinh
đẻ cảm hư phong sinh huyết vựng (chóng mặt) tinh thần hôn muội.
Bạch chỉ chủ trị tỵ uyên, đầu thống (chảy nước mũi, nhức đầu)
Kinh giới chủ trị các bệnh tật ở đầu và mất.
- Bạch chỉ cay, ôn, thơm, đă hay phát biểu lại hay
thông khiếu hoạt huyết, bài nùng (làm hết mủ). Chữa bệnh mũi thường dùng
vị thuốc này.
- Như "Tế sinh phương” có bài Thương nhĩ tán (gồm
lân di nhân, thương nhĩ tử, bạch chỉ, bạc hà) chữa các bệnh tỵ uyên, mũi
chẩy nước vàng, mũi tắc không thông.
- Kinh giới sở trường trị phong, vào can kinh, đưa lên
tới đầu, mắt, có công thanh lợi cho đầu và mắt, nôn chữa được tất cả các
bệnh về đầu và mắt.
- Như “Đông y bảo giám" có bài Kinh hoàng thang
gồm đại hoàng, kinh giới tuệ, phòng phong, trị bệnh phong nhiệt huyễn vựng
(chóng mặt). "Nhỡn khoa tông mộc luận" chữa các bệnh về đầu và
mắt, huyết lao, phong khí đầu thống, đầu choáng, mắt hoa, dùng kinh giới
tuệ tán nhỏ mỗi lần dùng 9 khắc uống với rượu.
Bạch chỉ chủ trị bệnh (cảm lạnh trong mùa hạ) xích thũng (phù đỏ)
Kinh giới chủ trị đái ra máu (tiện huyết)
- Bạch chỉ tiêu thũng và mủ, thích ứng dùng chữa các
bệnh âm thử, xích thũng
- Như "Kinh nghiệm phương" trị bệnh âm thử
xích thũng dùng bạch chỉ, đại hoàng hai vị bằng nhau, tán nhỏ, dùng nước cơm
uống mỗi lần 6 khắc. "Vệ sinh dị giản phương" trị thũng độc,
nhiệt thống, dùng bạch chỉ tán nhỏ tấm dấm mà bôi vào.
- Kinh giới tính hay cầm máu, sao dùng càng hay
- Như "Giản tiện đơn phương” chữa bệnh đi ỉa ra
máu. Dùng kinh giới hai lạng, hòe hoa một lạng sao vàng tán nhỏ, mỗi lần
uống 9 khấc uống với nước chè. "Tần bồ tập giản phương" trị bệnh
đái ra máu, dùng kinh giới, xúc xa nhân, các vị bằng nhau, tán nhỏ, uống
với nước cơm gạo nếp mỗi lần 9 khấc, uỗng ba ngày liền.
Đặc thù sử dụng khác nhau
- "Giản tiện phương" trị bệnh huyết nục (đổ
máu cam) không cầm, dùng Bạch chỉ tán nhỏ. Đồ sơn căn lập tức khỏi.
- "Ngoại khoa chân thuyên” có bài Ô bồi tán gồm
thảo ô 5 đồng cân, Bạch chỉ một lạng, long cốt một đồng năm phân, ngũ bội
tử 4 lạng. Trước hết đem ba vị giã nát, rồi đổ ngũ bội tử vào cùng sao
chín, rồi chỉ lấy ngũ bội tử ra nghiền nhỏ, dùng hương du (dầu thơm, dùng
bàn chải bôi vào, để chữa bệnh giáp thư. Bệnh này thường thấy ở ngòn chân
giáp bên cạnh làm thối thịt, ngày chẩy nước vàng, sinh nhức đầu khó chịu.
- "Kim qũy dực" có bài Kinh giới ẩm gồm kinh
giới tuệ, hoàng cầm, bồ hoàng, mỗi vị một lạng. Mỗi ngày uống ba thìa.
Dùng nước đun kỹ, bỏ bã, không hạn chế thời tiết nóng lạnh đều dùng được
cả để chữa bệnh thổ ra huyết.
- "Đông y bảo giám" có bài Kinh hoàng thang
gồm có đại hoàng tẩm rượu sao, kinh giới tuệ phòng phong, mỗi vị hai đồng
cân, tán nhỏ dùng nước sắc để uống để chữa bệnh phong nhiệt bụng nôn nao
không yên.
- "Vệ sinh bảo giám"'có bài Chính thiệt tán
gồm hùng hoàng, kinh giới tuệ, hai vị bằng nhau, tán nhỏ, mỗi lần uống hai
đồng cân dùng đậu lâm tửu điều hạ (rượu nhỏ giọt bằng hạt đậu) để chữa
bệnh trúng phong, lưỡi cứng không nói.
- "Bản thảo cương mục" trị bệnh miệng, mũi
chầy máu như suối, nguyên nhân vì tửu sắc qúa độ dùng kinh giới sao,
nghiền nhỏ, lấy trần bì sắc nước làm thang để uống 2 đồng cân, bất qúa chỉ
dùng hai lần là khỏi.
- Kinh nghiệm của gia đình Hoạt Cổ. "Hoạt cổ gia
chân" nói: kinh giới tuệ một lạng phác tiêu hai lạng, đều giã nhõ
(nghiên cứu chọn lọc thêm) dùng hành nấu nước để rửa vào chỗ có bệnh để
chữa bệnh thận (ngọai thận) bị thũng công dụng khác nhau.
u.